사랑방 손님과 어머니 - 주요섭 (Chú ở phòng khách và mẹ - Joo Yo-seop) (Phần cuối)

사랑방 손님과 어머니 - 주요섭                                        (Chú ở phòng khách và mẹ -                                                                                                                                               Joo Yo-seop) (Phần cuối)

11. 하루는 밤에 아저씨 방에서 놀다가 졸려서 안방으로 들어오려고 일어서니까 아저씨가 하얀 봉투를 서랍에서 꺼내어 내게 주었습니다.

Một buổi tối, khi đang chơi ở phòng chú, tớ buồn ngủ, lúc đứng dậy định về phòng, chú lấy trong hộc tủ một bao thư màu trắng đưa cho tớ.

“옥희, 이것 갖다가 엄마 드리고 지나간 달 밥값이라구, 응.”

“Ok-hee, con cầm cái này về đưa cho mẹ, nói tiền tháng này chú gửi nha.”

나는 그 봉투를 갖다가 어머니에게 드렸습니다. 어머니는 그 봉투를 받아 들자 갑자기 얼굴이 파랗게 질렸습니다. 그 전날 달밤에 마루에 앉았을 때보다도 더 새하햫다고 생각되었습니다. 어머니는 봉투를 들고 어쩔 줄을 모르는 듯이 초조한 빛이 나타났습니다. 나는,

Tớ cầm bao thư về đưa cho mẹ. Mẹ cầm lấy bao thư, mặt đột nhiên trắng bệt. Tớ nghĩ trắng hơn lần mẹ ngồi dưới hè vào đêm trăng tối hôm trước nữa. Cầm bao thư trên tay, gương mặt mẹ đầy vẻ bối rối như chẳng biết làm thế nào với nó. Thế là tớ nói,

“그거 지나간 달 밥값이래.”

“Chú nói là tiền tháng này đấy ạ.”

하고 말을 하니까 어머니는 갑자기 잠자다 깨나는 사람처럼 ‘응?’하고 놀라더니 또 금시에 백지장같이 새하얗던 얼굴이 발갛게 물들었습니다. 봉투 속으로 들어갔던 어머니의 파들파들 떨리는 손가락이 지전을 몇 장 끌고 나왔습니다. 어머니는 입술에 약간 웃음을 띄우면서 후 하고 한숨을 내쉬었습니다. 그러나 그것도 잠깐, 다시 어머니는 무엇에 놀랐는지 흠칫하더니 금시에 얼굴이 다시 새하얘지고 입술이 바르르 떨렸습니다. 어머니의 손을 바라다보니 거기에는 지전 몇 장 외에 네모로 접은 하얀 종이가 한 장 잡혀 있는 것이었습니다.

Nghe tớ nói mẹ như người vừa tỉnh ngủ, nói với giọng bất ngờ “hả?” rồi gương mặt mới đang trắng như tờ giấy lập tức chuyển sang đỏ. Mấy ngón tay rung rung bỏ vào trong bao thư lấy ra mấy tờ tiền. Mẹ thoáng nở nụ cười rồi thở phào một tiếng. Thế nhưng ngay tức khắc mẹ lại giật mình, mặt đỏ, môi rung lên lắp bắp. Tớ nhìn vào tay mẹ thì thấy ngoài tiền thì còn có một tờ giấy trắng xếp thành hình vuông ở trong đó nữa.

어머니는 한참을 망설이는 모양이었습니다. 그러더니 무슨 결심을 한 듯이 입술을 악물고 그 종이를 차근차근 펴들고 그 안에 쓰인 글을 읽었습니다. 나는 그 안에 무슨 글이 씌어 있는지 알 도리가 없었으나 어머니는 그 글을 읽으면서 금시에 얼굴이 파랬다 발갰다 하고 그 종이를 든 손은 이제는 바들바들이 아니라 와들와들 떨리어서 그 종이가 부석부석 소리를 내게 되었습니다.

Mẹ có vẻ chần chừ một lúc. Rồi như quyết tâm điều gì, mẹ cắn chặt môi, nhẹ nhàng mở tờ giấy ra và đọc những chữ ghi trên đó. Tớ chẳng biết trên đó viết gì chỉ thấy gương mặt mẹ khi đọc lúc thì xanh lúc thì đỏ. Bàn tay cầm tờ giấy giờ không còn rung rung mà đã chuyển sang rung rẩy khiến tờ giấy cũng phát ra tiếng.

한참 후에 어머니는 그 종이를 아까 모양으로 네모지게 접어서 돈과 함께 봉투에 도로 넣어 반짇그릇에 던졌습니다. 그리고는 정신나간 사람처럼 멀거니 앉아서 전등만 쳐다보는데 어머니 가슴이 불룩불룩합니다. 나는 어머니가 혹시 병이나 나지 않았나 하고 염려가 되어서 얼른 가서 무릎에 안기면서,

Mãi một lúc lâu, mẹ gấp lại tờ giấy thành hình vuông như lúc đầu rồi bỏ vào bao thư cùng với tiền đặt vào rổ đựng kim chỉ. Mẹ thất thần ngồi xuống đăm chiêu nhìn vào bóng đèn, lồng ngực mẹ phập phồng. Tớ lo lắng, nghĩ mẹ bị đau gì đó nên nhanh chóng chạy đến ôm lấy đầu gối mẹ. Tớ nói,

“엄마, 잘까?”하고 말했습니다.

“Mẹ ơi, chúng ta đi ngủ nhé?”

엄마는 내 뺨에 입을 맞추어 주었습니다. 그런데 어머니의 입술이 어쩌면 그리도 뜨거운지요, 마치 불에 달군 돌이 볼에 오 닿는 것 같았습니다.

Mẹ hôn lên má tớ. Nhưng sao mà môi mẹ lại nóng đến thế, giống như hòn đá nung nóng trong lửa vậy.

한잠을 자고 나서 채 깨지는 않았으나  어렴풋한 정신으로 옆을 쓸어 보니 어머니가 없었습니다. 가끔가다가 나는 그런 버릇이 있어요. 어렴풋한 정신으로 옆을 쓸면 어머니의 보드라운 살이 만져지지요. 그러면 다시 나는 잠이 들어 버리곤 하는 것이었습니다.

Ngủ được một lúc, tớ lơ mơ thức giấc nghiêng qua bên thì không thấy mẹ đâu cả. Tớ có thói quen là khi mơ màng tỉnh ngủ sẽ nghiêng qua sờ làn da mịn màng của mẹ rồi ngủ tiếp.

어머니가 자리에 없다는 것을 알게 되자 나는 갑자기 무서워졌습니다. 그래서 잠은 다 달아나고 눈을 번쩍 뜨고 고개를 돌려 살펴보았습니다. 방 안에는 불은 안 켰지만 어슴푸레하게 밝습니다. 뜰로 하나 가득한 달빛이 방 안에까지 희미한 밝음을 던져 주는 것이었습니다. 윗목을 보니 우리 아버지의 옷을 넣어 두고 가끔 어머니가 꺼내서 쓸어 보시는 그 장롱 문이 열려 있고, 그 아래 방바닥에는 흰옷이 한 무더가 널려 있습니다. 그리고 그 옆에는 장롱을 반쯤 기대고 자리옷만 입은 어머니가 주춤하고 앉아서 고개를 위로 쳐들고 눈은 감고 무엇이라고 입술로 소곤소곤 외고 있는 것이 보였습니다. 아마 기도를 하나 보다 하고 나는 생각했습니다. 나는 자리에서 일어나 기어가서 어머니 무릎을 뻐개고 기어들어갔습니다.

Chẳng thấy mẹ, tớ bất chợt cảm thấy sợ. Tớ choàng dậy và nhìn xung quanh. Trong phòng không bật đèn nhưng vẫn sáng lờ mờ. Ánh trăng tỏa sáng đầy một khoảng sân và còn len lỏi vào tận trong phòng. Ở trong một góc phòng, cánh cửa tủ mẹ cất quần áo của bố, lâu lâu lấy ra vuốt ve đang được mở và dưới đó có bộ đồ trắng của bố đang được trải ra. Ngay bên cạnh mẹ đang mặc bộ đồ ngủ ngồi thu mình, tựa hờ vào tủ, ngước mặt nhìn lên, nhắm mắt, môi mấp máy điều gì đó. Tớ nghĩ chắc mẹ đang cầu nguyện. Tớ đứng dậy chạy lại ngồi vào giữa lòng mẹ. “엄마 무얼 해?”“Mẹ ơi, mẹ đang làm gì đấy ạ?”

어머니는 소곤거리기를 그치고 눈을 떠서 나를 한참이나 물끄러미 들여다보십니다.

Mẹ không thầm thì trong miệng nữa mà mở mắt ra ngắm tớ.

“옥희야.”

“Ok-hee ơi.”

“응?”

“Dạ?”

“가서 자자.”

“Đi ngủ thôi con.”

“엄마두 같이 자.”

“Mẹ cũng đi ngủ nhé mẹ”

“응, 그래 엄마두 같이 자.”

“Ừ, mẹ cũng đi ngủ đây.”

그 목소리 어째 싸늘하다고 내게 생각되었습니다.

Tớ cảm thấy trong giọng nói của mẹ đầy sự lạnh lẽo.

어머니는 돌아가신 아버지의 옷들을 한 가지씩 들고는 가만히 손바닥으로 쓸어 보고는 장롱 안에 넣었습니다. 하나씩 하나씩 쓸어 보고는 장롱에 넣곤 하여 그 옷을 다 넣은 때 장롱 문을 닫고 쇠를 채우고 그러고 나서 나를 안고 자리고 돌아왔습니다.

Mẹ cầm từng bộ đồ của bố lên vuốt ve bằng lòng bàn tay rồi bỏ vào trong tủ. Mẹ vuốt ve từng bộ, đặt vào trong tủ, đặt xong mẹ khóa tủ, ôm lấy tớ quay về chỗ ngủ.

“엄마, 우리 기도하고 자?”

Tớ nói với mẹ,“Mẹ ơi, hay chúng ta cầu nguyện rồi ngủ nhé?”

하고 나는 물었습니다. 어머니는 나를 밤마다 재워 줄 때마다 받드시 기도를 하는 것이었습니다. 내가 할 줄 아는 기도는 주기도문뿐이었습니다. 그 뜻은 하나도 모르지만 어머니를 따라서 자꾸자꾸 해보아서 지금에는 나도 주기도문을 잘 욉니다. 그런데 웬일인지 어젯밤 잘 때에는 어머니가 기도할 것을 잊어버리고 그냥 잤던 것이 지금 생각이 났기 때문에 나는 그렇게 물었던 것입니다. 어젯밤 자리에 들 때 내가, “기도할까?”하고 말하고 싶었으나 어머니가 너무도 슬픈 빛을 띠고 있는 고로 그만 나도 가만히 아무 소리 없이 잠이 들고 말았던 것입니다.

Đêm nào ru tớ ngủ mẹ cũng đều cầu nguyện cả. Bài cầu nguyện duy nhất tớ biết là Kinh lạy cha. Tớ không hiểu ý nghĩa của bài kinh cầu nguyện này nhưng tớ cầu nguyện theo mẹ nên giờ tớ cũng thuộc rồi. Tớ chợt nhớ ra tối qua không hiểu sao mẹ quên cầu nguyện, cứ thế đi ngủ. Tối qua trước khi ngủ tớ muốn nói với mẹ,“Mẹ ơi chúng ta cầu nguyện nhé?”Nhưng thấy gương mặt tràn đầy nỗi buồn của mẹ, tớ không nói gì, cứ vậy đi ngủ.

“응, 기도하자.”하고 어머니가 고요히 대답했습니다.

Mẹ lặng lẽ trả lời, “Ừ, chúng ta cùng cầu nguyện nhé con.”

“엄마가 기도해.”하고 나는 갑자기 어머니의 기도하는 보드라운 음성이 듣고 싶어져서 말했습니다.

Tự nhiên tớ rất muốn nghe giọng dịu dàng của mẹ khi cầu nguyện nên tớ nói,“Mẹ cầu nguyện đi ạ”

“하늘에 계신 우리 아버지시여.”어머니는 고요히 기도를 시작하였습니다.

Mẹ bắt đầu cầu nguyện trong sự bình lặng, “Lạy cha chúng con ở trên trời.”

“이름을 거룩하게 하옵시며 나라이 임하옵시며 뜻이 하늘에서 이루어진 것처럼 땅에서도 이루어지이다. 오늘날 우리에게 일용할 양식을 주옵시고 우리가 우리에게 지지은 자를 용서하여 준 것처럼 우리 죄를 사하여 주옵시고, 우리를 시험에 들지 말게 하옵시고……. 우리를 시험에 들지 말게 하옵시고……. 시험에 들지 말게….. 시험에 들지 말게……”

“Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày, và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…… xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ……. xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ ……… xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ……..”

이렇게 어머니는 자꾸 되풀이하였습니다. 나도 지금은 막히지 않고 줄줄 외는 주기도문을 글쎄 어머니가 막히다니 참으로 우스운 일이었습니다.

Mẹ cứ lặp đi lặp lại như vậy. Đến tớ còn thuộc làu làu bài Kinh Lạy Cha không bị quên gì cả, thế mà mẹ tớ lại quên, thật là buồn cười.

“시험에 들지 말게….. 시험에 들지 말게……”

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…….. xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ……….”

하고 자꾸만 되풀이하는 것을 나는 참다못해서,

Thấy mẹ cứ lặp đi lặp lại, tớ không chờ thêm được nữa nên nói,

“엄마 내 마저 할게.”하고,

“Mẹ để con cầu nguyện đoạn cuối cho ạ.”

“다만 악에서 구하옵소서. 대개 나라와 권세와 영광이 아버지께 영원히 있사옵나이다.”

“Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Nước Cha trị vì vinh quang mãi mãi. Amen”

하고 내가 끝을 마쳤습니다. 어머니는 한참이나 가만 있다가 오래 후에야 겨우, “아멘.”하고 속삭이었습니다.

Mẹ lặng im một lúc lâu rồi mới thầm thì“Amen”

12. 요새 와서 어머니의 하는 일이란 참으로 알 수가 없는 노릇입니다. 어떤 때는 어머니도 퍽 유쾌하셨습니다. 밤에 때로는 풍금도 타고 또 때로는 찬송가도 부르고 그러실 때에는 나는 너무도 좋아서 가만히 어머니 옆에 앉아서 듣습니다. 그러나 가끔가끔 그 독창은 소리 없는 울음으로 끝을 맺는 때가 많은데, 그런 때면 나도 따라서 울었습니다. 그러면 어머니는 나를 안고 내 얼굴에 돌아가면서 무수히 입을 맞추어 주면서,

Dạo này thật sự chẳng hiểu được những việc mẹ làm. Có khi mẹ rất vui. Thỉnh thoảng buổi tối mẹ còn đánh đàn phong cầm và hát nữa. Những lúc mẹ như vậy tớ rất thích và lặng lẽ ngồi bên nghe mẹ hát. Thế nhưng có khi bài hát kết thúc bằng tiếng khóc nấc nghẹn. Những lúc như vậy tớ cũng khóc theo mẹ. Mẹ ôm tớ vào lòng, hôn lên khắp mặt tớ, mẹ nói,

“엄마는 옥희 하나문 그뿐이야, 응, 그렇지…..”

“Mẹ chỉ có một mình Ok-hee thôi, chỉ có một mà thôi…”

하시면서 언제까지나 언제까지나 우시는 것이었습니다.

Nói câu này lúc nào mẹ cũng khóc.

어떤 일요일날 그렇지요, 그것은 유치원 방학하고 난 그 이튿날이었어요. 그날 어머니는 갑자기 머리가 아프시다고 예배당에를 그만두었습니다. 사랑에서는 아저씨도 어디 나가고 외삼촌도 나가고 집에는 어머니와 단둘이 있었는데, 머리가 아프다고 누워 계시던 어머니가 갑자기 나를 부르시더니,“옥희야, 너 아빠가 보고 싶니?”하고 물으십니다.

Vào chủ nhật, một ngày sau kỳ nghỉ hè, mẹ nói đau đầu nên không đi lễ được. Hôm đó chú  đã đi ra ngoài, cậu cũng đi ra ngoài nên nhà chỉ còn mẹ với tớ. Mẹ nói đau đầu nên đi nằm, rồi đột nhiên mẹ gọi tớ và hỏi,“Ok-hee ơi, con có nhớ bố không?

“응, 우리두 아빠 하나 있으문.”하고 나는 혀를 까불고 어리광을 좀 부려 가면서 대답을 했습니다. 한참 동안을 어머니는 아무 말씀도 아니 하시고 천장만 바라다보시더니,

Tớ lè lưỡi nói,“Dạ, con ước chúng ta có bố.”Mẹ im lặng một lúc lâu, cứ thế nhìn lên trần nhà, rồi mẹ nói chậm rãi như đang nói cho bản thân nghe,

“옥희야, 옥희 아버지는 옥희가 세상에 나오기도 전에 돌아가셨단다. 옥희두 아빠가 없는 건 아니지. 그저 일찍 돌아가셨지. 옥희가 이제 아버지를 새로 또 가지면 세상이 욕을 한단다. 옥희는 아직 철이 없어서 모르지만 세상이 욕을 한단다. 사람들이 욕을 해. 옥희 어머니는 화냥년이다 이러구 세상이 욕을 해.옥희 아버지는 죽었는데 옥희는 아버지가 또 하나 생겼대, 참 망측두 하지. 이러구 세상이 욕을 한단다. 그리 되문 옥희는 언제나 손가락질받구. 옥희는 커두 시집두 훌륭한 데 못 가구. 옥희가 공부를 해서 훌륭하게 돼두 에 그까짓 화냥년의 딸, 이러구 남들이 욕을 한단다.”

“Ok-hee ơi, bố mất trước khi con được sinh ra đời. Không phải con không có bố. Chỉ là bố mất sớm thôi con. Giờ mà con có bố mới thì sẽ bị người đời dè bỉu. Con còn nhỏ nên chưa biết nhưng chuyện này sẽ bị mọi người dè bỉu thôi con. Người ta sẽ chửi. Sẽ chửi mẹ của Ok-hee là thứ đàn bà không ra gì. Bố Ok-hee mất rồi, giờ có bố mới, thật là kinh tởm, họ sẽ chửi thôi. Nếu vậy thì Ok-hee của mẹ lúc nào cũng bị họ chỉ trỏ. Ok-hee lớn lên cũng không được gả vào một gia đình danh giá. Ok-hee của mẹ có ăn học rồi trở thành người xuất sắc cũng bị mang danh con gái của thứ đàn bà không ra gì.

이렇게 어머니는 혼자말하시듯 드문드문 말씀하셨습니다. 그리고는 한참 있더니.“옥희야.”하고 또 부르십니다.

Mẹ nói một thôi một hồi rồi lại gọi,“Ok-hee ơi.”

“응?”

“Dạ?”

“옥희는 언제나, 언제나, 내 곁을 안 떠나지. 옥희는 언제나, 언제나 엄마하구 같이 살지. 옥희는 엄마가 늙어서 꼬부랑 할미가 되어두 그래두 옥희는 엄마하구 같이 살지. 옥희가 유치원 졸업하구 또 소학교 졸업하구, 또 중학교 졸업하구, 또 대학교 졸업하구, 옥희가 조선서 제일 훌륭한 사람이 돼두 그래두 옥희는 엄마하구 같이 살지. 응! 옥희는 엄마를 얼마큼 사랑하나?”

“Ok-hee lúc nào cũng không rời xa mẹ nhé. Ok-hee sống với mẹ mãi nhé. Sau này mẹ già lụm khụm đi nữa Ok-hee cũng sống với mẹ. Ok-hee học xong mầm non, lên tiểu học, trung học, rồi tốt nghiệp trung học, lên đại học, Ok-hee trở thành cô gái xuất chúng nhất Joseon này thì con cũng sống với mẹ nhé. Nhé con! Ok-hee thương mẹ nhiều cỡ nào?”

“이만큼.”하고 나는 두 팔을 짝 벌리어 보였습니다.

Tớ dang cánh tay ra và nói, “Cỡ này.”

“응? 얼마큼? 응! 그만큼! 언제나, 언제나 옥희는 엄마만 사랑하지. 그리구 공부두 잘하구, 그리구 훌륭한 사람이 되구…..”

“Hả? Cỡ nào? À! Cỡ đó! Lúc nào, lúc nào Ok-hee cũng chỉ thương mẹ thôi nhé. Và con sẽ học thật giỏi, trở thành một cô gái xuất sắc, rồi….”

나는 어머니의 목소리가 떨리는 것으로 보아 어머니가 또 울까 봐 겁이 나서, “엄마, 이만큼, 이만큼.”하면서 두 팔을 짝짝 벌리었습니다.

Thấy giọng mẹ rung rung nên tớ sợ mẹ sẽ khóc nên càng dang hai tay rộng ra nữa rồi nói,“Mẹ ơi, cỡ này, cỡ này nè mẹ.”

어머니는 울지 않으셨습니다.“응, 그래, 옥희 엄마는 옥희 하나문 그뿐이야.  세상 다른 건 다 소용없어. 우리 옥희 하나문 그만이야. 그렇지, 옥희야.”

Mẹ không khóc, mẹ lại nói,“Ừ, cỡ đó, Ok-hee ơi, mẹ chỉ cần mình con thôi. Mẹ chẳng cần thêm điều gì nữa cả. Chỉ cần có mình con thôi là đủ rồi. Con nhỉ!”“응!”“Dạ!”

어머니는 나를 당기어서 꼭 껴안고 내 가슴이 막혀 들어올 때까지 자꾸만 껴안아 주었습니다.

Mẹ kéo tớ vào lòng ôm chặt lấy tớ. Mẹ ôm chặt đến mức lồng ngực như bị bóp nghẹt.

그날 밤 저녁밥 먹고 나니까 어머니는 나를 불러 앉히고 머리를 새로 빗겨 주었습니다. 댕기도 새 댕기를 드려 주고, 바지, 저고리, 치마 모두 새것을 꺼내 입혀 주었습니다.

Tối đó sau khi ăn cơm xong mẹ gọi lại, thắt tóc cho tớ. Mẹ buộc cho tớ dây ruy băng mới, cả quần, váy và áo khoác cũng đều mới.

“엄마, 어디 가?”하고 물으니까,

Tớ hỏi mẹ,“Mẹ ơi, chúng ta đi đâu ạ?”

“아니.”하고 웃음을 띄우면서 대답합니다. 그러더니 풍금 옆에서 새로 다린 하얀 손수건을 내리어 내 손에 쥐어 주면서,

Mẹ thoáng cười trả lời,“Không.”Rồi mẹ bỏ vào tay tớ chiếc khăn tay màu trắng được là phẳng phiu đặt bên cạnh cây đàn phong cầm rồi nói

“이 손수건, 저 사랑 아저씨 손수건인데, 이것 아저씨 갖다 드리구 와, 응. 오래 있지 말구 손수건만 갖다 드리구 이내 와, 응.”하고 말씀하셨습니다.

“Đây là chiếc khăn tay của chú, con đem gửi lại cho chú giúp mẹ nhé. Đừng đi lâu quá, chỉ đem khăn qua gửi chú rồi về liền con nhé.”

손수건을 들고 사랑으로 나가면서 나는 손수건 접이 속에 무슨 발각발각하는 종이가 들어 있는 것처럼 생각되었습니다마는 그것을 펴보지 않고 그냥 갖다가 아저씨에게 주었습니다.

Lúc cầm khăn tay ra phòng khách đưa cho chú tớ thấy hình như trong khăn có tờ giấy gì sột soạt bên trong nhưng lúc đó tớ không có mở ra xem mà cầm nguyên đưa qua cho chú.

아저씨는 방에 누워 있다가 벌떡 일어나서 손수건을 받는데, 웬일인지 아저씨는 이전처럼 나보고 빙그레 웃지도 않고 얼굴이 몹시 파래졌습니다. 그리고는 입술을 질근질근 깨물면서 말 한마디 아니 하고 그 수건을 받더군요.

Chú đang nằm trong phòng thì lật đật đứng dậy để lấy chiếc khăn. Không biết có chuyện gì mà chú không như trước chẳng cười gì cả, gương mặt cứ xanh xao lên. Chú mím chặt môi, không nói lời nào, cứ vậy mà nhận lấy chiếc khăn.

나는 어째 이상한 기분이 돌아서 아저씨 방에 들어가 앉지도 못하고 그냥 뒤돌아서  안방으로 들어왔지요. 어머니는 풍금 앞에 앉아서 무엇을 그리 생각하는지 가만히 있더군요. 나는 풍금 옆으로 가서 가만히 그 옆에 앉아 있었습니다. 이윽고 어머니는 조용조용히 풍금을 타십니다. 무슨 곡조인지는 몰라도 어째 구슬프고 고즈넉한 곡조야요.

Tớ cảm thấy lạ nên cũng không dám vào phòng chú nữa mà về lại phòng của mình. Trong phòng mẹ đang ngồi trước đàn phong cầm, lặng im như đang suy nghĩ điều gì đó. Tớ lặng lẽ đi tới bên cạnh cây đàn và ngồi xuống. Một lúc mẹ lặng lẽ khẩy đàn. Tớ không biết mẹ đang đánh bài gì nhưng đó là một giai điệu buồn bã và sầu thảm.

밤이 늦도록 어머니는 풍금을 타셨습니다. 그 구슬프고 고즈넉한 곡조를 계속하고 또 계속하면서.

Mẹ đánh đàn tới tận khuya. Cứ đánh suốt giai điệu buồn bã và sầu thảm đó.

13. 여러 밤을 자고 난 어떤 날 오후에 나는 오래간만에 아저씨 방엘 나가 보았더니 아저씨가 짐을 싸느라고 분주하겠지요. 내가 아저씨에게 손수건을 갖다 드린 다음부터는 웬일인지 아저씨가 나를 보아도 언제나 퍽 슬픈 사람, 무슨 근심이 있는 사람처럼 아무 말도 없이 나를 물끄러미 바라다만 보고 있는 고로 나도 그리 자주 놀러 나오지 않았던 것입니다. 그랬었는데 이렇게 갑자기 짐을 꾸리를 것을 보고 나는 날랐습니다.

Mấy ngày sau vào một buổi chiều, lâu lắm rồi tớ mới sang phòng chú chơi. Lúc này chú đang bận bịu sắp xếp hành lý. Kể từ ngày tớ đưa chú chiếc khăn tay, không hiểu vì việc gì mà chú lúc nào cũng buồn, như có sầu khổ gì trong lòng, chú chẳng nói gì cứ nhìn tớ xa xăm nên tớ cũng không thường xuyên qua phòng chú chơi nữa. Đang vậy thì chú lại đột nhiên thu xếp hành lý. Tớ lật đật hỏi,

“아저씨, 어디 가우?”

“Chú ơi, chú đi đâu thế ạ?”

“응, 멀리루 간다.”

“Chú đi tới một chỗ rất xa.”“언제?”

“Chừng nào ạ?”

“오늘.”

“Hôm nay.”

“기차 타구?”

“Chú đi tàu hỏa ạ?”

“응. 기차 타구.”

“Ừ. Chú đi tàu.”

“갔다가 언제 또 오우?”

“Đi rồi khi nào chú trở lại ạ?”

아저씨는 아무  대답도 없이 서랍에서 이쁜 인형을 하나 꺼내서 내게 주었습니다.

Chú nín thinh, lấy trong hộc tủ ra một con thú bông đẹp đưa cho tớ.

“옥희, 이것 가져, 응. 옥희는 아저씨 가구 나문 아저씨 이내 잊어버리구 말겠지!”

“Ok-hee, con giữ cái này nhé. Chú đi rồi, chắc Ok-hee sẽ quên chú ngay thôi nhỉ!”

나는 갑자기 슬퍼졌습니다. 그래서, “아니.”하고 얼른 대답하고 인형을 안고 안으로 들어왔습니다.

Đột nhiên một nỗi buồn trào dâng. Tớ nhanh chóng trả lời, “Không đâu ạ.” rồi ôm thú bông về phòng.

“엄마, 이것 봐. 아저씨가 이것 나 줬다우. 아저씨가 오늘 기차 타구 먼 데루 간대.”하고 내가 말했으나, 어머니는 대답이 없으십니다.

“Mẹ ơi, xem đây nè. Chú tặng con nè. Chú nói hôm nay chú đi tàu, đi đâu xa đó mẹ.”Tớ nói nhưng mẹ cứ lặng im.

“엄마, 아저씨 왜 가우?”

“Mẹ ơi, sao chú lại đi vậy mẹ?”

“학교 방학했으니까 가지.”

“Vì kì nghỉ ở trường nên chú đi thôi con.”

“어디루 가우?”

“Chú đi đâu vậy ạ?”

“아저씨 집으로 가지, 어디루 가.”

“Chú về nhà của chú, chứ đi đâu nữa con.”

“갔다가 또 오우?”

“Chú đi rồi có về lại không hả mẹ?”

어머니는 대답이 없으십니다.

Mẹ không trả lời.

“난 아저씨 가는 거 나쁘다.”하고 입을 쫑긋했으나, 어머니는 그 말을 대답 않고,

Tớ phụng phịu, “Con không muốn chú đi chút nào cả”, mẹ chẳng trả lời tớ mà nói,

“옥희야, 벽장에 가서 달걀 몇 알 남았나 보아라.”하고 말씀하셨습니다.

“Ok-hee, con ra tủ mé tường xem còn mấy quả trứng gà nhé.”

나는 깡충깡총 방으로 들어갔습니다. 달걀은 여섯 알이 있었습니다.“여스 알.”하고 나는 소리쳤습니다.

Tớ tung tăng chạy đi. Còn sáu quả trứng gà. Tớ nói to, “Sáu ạ.”

“응, 다 가지구 이리 나오너라.”

“Ừ, con đem hết vào đây.”

어머니는 그 달걀 여섯 알을 다 삶았습니다. 그 삶은 달걀 여섯 알을 손수건에 싸 놓고 또 반지에 소금을 조금 싸서 한 귀퉁이에 넣었습니다.“옥희야, 너 이것 갖다 아저씨 드리구, 가시다가 찻간에서 잡수시랜다구, 응.”

Mẹ luộc hết sáu quả trứng, bọc vào trong khăn tay, kèm thêm một ít muối vào giấy rồi bỏ hết vào hộp.“Ok-hee, con đem cái này đưa cho chú nhé, nói chú cầm theo để ăn trên tàu.”

14. 그날 오후에 아저씨가 떠나간 다음 나는 방에서 아저씨가 준 인형을 업고 자장자장 잠을 재우고 있었습니다. 어머니가 부엌에서 들어오시더니,

Chiều đó ngay khi chú vừa đi, tớ ôm thú nhồi bồng chú tặng và hát ru ở trong phòng. Mẹ từ bếp lên rồi nói,

“옥희야, 우리 뒷동산에 바람이나 쐬러 올라갈까?”하십니다.

“Ok-hee ơi, chúng ta đi ra phía sau núi hóng gió nhé?”

“응. 가, 가.”하면서 나는 좋아 덤비었습니다.

Tớ reo lên thích thú,“Dạ. Đi, đi thôi mẹ.”

잠깐 다녀올 터이니 집을 보고 있으라고 외삼촌에게 이르고 어머니는 내 손목을 잡고 나섰습니다.

Mẹ nói với cậu ngó chừng nhà, mẹ đi một lát rồi cầm lấy tay tớ.

“엄마, 나 저, 아저씨가 준 인형 가지고 가?”

“Mẹ ơi, con mang theo thú bông chú tặng được không ạ?”

“그러렴.”

“Ừ con mang theo đi.”

나는 인형을 안고 어머니 손목을 잡고 뒷동산으로 올라갔습니다. 뒷동산에 올라가면 정거장이 빤히 내려다보입니다.

Tớ ôm thú bông vào lòng, cầm tay mẹ đi ra phía sau núi. Khi lên tới nơi, tớ nhìn chằm chằm vào ga tàu phía dưới.

“엄마, 저 정거장 봐. 기차는 없군.”

“Mẹ ơi, mẹ nhìn ga tàu phía dưới đi ạ. Không có tàu.”

어머니는 아무 말씀도 없이 가만히 서 계십니다. 사르르 바람이 와서 어머니 모시 치맛자락을 산들산들 흔들어 주었습니다. 그렇게 산 위에 가만히 서 있는 어머니는 다른 때보다도 더한층 이쁘게 보였습니다.

Mẹ không nói gì mà cứ đứng im lặng. Gió thổi khiến vạt váy của mẹ tung bay. Khi mẹ đứng im lặng trên núi như thế này, tớ lại thấy mẹ đẹp hơn rất nhiều so với thường ngày nữa.

저편 산모퉁이에서 기차가 나타났습니다.

Một đoàn tàu đang đi tới từ phía xa hẻm núi.

“아, 저기 기차 온다.”하고 나는 좋아서 소리쳤습니다.

Tớ reo lên thích thú. “A, tàu đến kìa.

”기차는 정거장에 잠시 머물더니 금시에 삑 하고 소리를 지르면서 움직였습니다. “기차 떠난다.”

Tàu dừng một lát ở nhà ga rồi tiếng còi tàu vang lên, từ từ di chuyển. “Tàu rời ga rồi.”

하면서 나는 손뼉을 쳤습니다. 기차가 저편 산모퉁이 뒤로 사라질 때가지, 그리고 그 굴뚝에서 나는 연기가 하늘 위로 모두 흩어져 없어질 때까지, 어머니는 가만히 서서 그것을 바라다보았습니다.

Tớ vừa nói vừa đánh vào lòng bàn tay. Mẹ tớ cứ ngây người nhìn mãi về phía đoàn tàu cho đến khi nó khuất dạng và những làn khói từ ống khói cũng tan biến vào khoảng không.

뒷동산에서 내려오자 어머니는 방으로 들어가시더니 이때까지 뚜껑을 늘 열어 두었던 풍금 뚜껑을 닫으십니다. 그리고는 거기 쇠를 채우고 그 위에다가 이전 모양으로 반짇그릇을 얹어 놓으십니다. 그리고는 그 옆에 있는 찬송가를 맥없이 들고 뒤적뒤적하시더니 빼빼 마른 꽃송이를 그 갈피에서 집어 내시더니,

Lúc đi xuống núi, trở về phòng mẹ đóng nắp cây đàn phong cầm mà bấy lâu để mở. Rồi khóa lại, đặt lên trên giỏ đựng kim chỉ như trước kia. Và mẹ nhặt ra nhánh hoa khô để trong sổ thánh ca ngay bên cạnh, mẹ nói,

“옥희야, 이것 내다버려라”

“Ok-hee, con đem bỏ đi nhé.”

하고 그 마른 꽃을 내게 주었습니다. 그 꽃은 내가 유치원에서 갖다가 어머니께 드렸던 그 꽃입니다. 그러자 옆대문이 삐걱 하더니,

Nói rồi mẹ đưa hoa khô đó cho tớ. Đó là bông hoa tớ lấy ở lớp nhà trẻ về tặng mẹ nè. Lúc này ở phía cửa có tiếng rao,

“달걀 사소.”

“Mua trứng nào.”

하고 매일 오는 달걀장수 노친네가 달걀 광주리를 이고 들어왔습니다.

Đó là tiếng rao mỗi ngày của người bán trứng ở khu vực này.

“인젠 우리 달걀 안 사요. 달걀 먹는 이가 없어요.”하시는 어머니 목소리는 맥이 한푼 어치도 없었습니다.

“Giờ cháu không mua trứng đâu ạ. Nhà không còn ai ăn trứng nữa”, giọng mẹ đượm buồn trả lời.

나는 어머니의 이 말씀에 놀라서 떼를 좀 써보려고 했으나 석양에 빤히 비치는 어머니 얼굴을 볼 때 그 용기가 없어지고 말았습니다. 그래서 아저씨가 주신 인형 귀에다가 내 입을 갖다 대고 가만히 속삭이었습니다.

Tớ giật mình với câu nói của mẹ nên định sửa lại nhưng nhìn thấy gương mặt mẹ phủ đầy ánh chiều tà nên tớ chẳng còn dũng khí để nói. Vì vậy tớ ghé vào tai của thú bông chú tặng mà thầm thì,

“얘, 우리 엄마가 거짓부리 썩 잘하누나. 내가 달걀 좋아하는 줄 잘 알문성 생 먹을 사람이 없대누나. 떼를 좀 쓰구 싶다만 저 우리 엄마 얼굴을 좀 봐라. 어쩌문 저리두 새파래졌을까? 아마 어디가 아픈가보다.” 라고요.

“Bé nè, mẹ nói dối giỏi lắm cơ. Rõ ràng mẹ biết chị thích trứng gà mà lại nói nhà không còn ai ăn nữa. Chị định nói lại nhưng em nhìn gương mặt mẹ kìa. Tái nhợt. Chắc mẹ đang đau ở đâu ý.”

(Hết)

ml dịch

Nguồn: Readings in Modern Korean Literature, tr.147 ~ tr.163

Xem phần 1 tại đây: 사랑방 손님과 어머니 - 주요섭 (Chú ở phòng khách và mẹ - Joo Yo-seop) (Phần 1) (hanngushb.vn)

Xem phần 2 tại đây: 사랑방 손님과 어머니 - 주요섭 (Chú ở phòng khách và mẹ Joo Yo-seop) (Phần 2) (hanngushb.vn)

Xem phần 3 tại đây: 사랑방 손님과 어머니 - 주요섭 (Chú ở phòng khách và mẹ - Joo Yo-seop) (Phần 3) (hanngushb.vn)

Đọc xong tác phẩm, cảm xúc đang hiện hữu trong bạn là gì, có thể chia sẻ để chúng ta cùng nhau cảm nhận được không?